Giữa đám khói mù, ai nấy vung kiếm loạng chà loạng choạng, Mạnh Giác tuy cũng sửng sốt đầy bụng, song lại vừa ho vừa không dằn được bật cười.
Lấy gia vị làm vũ khí vầy, cõi đời này trừ Vân Ca của y chắc cũng khó còn có ai.
Lần cuối cùng công tử hạnh phúc, cầm lòng không đặng bốc đem bỏ lên đầu chương ~
Chương 18: Ngút trời lửa đoạn duyên mình tự đây
.
Cung Ôn Tuyền trên núi Ly sơn ngoài thành Trường An được xây lần đầu vào đời Tần thủy hoàng, sau đến đời Hán vũ đế lạitrùng tu thêm mấy bận. Tuy sau khi Lưu Phất Lăng lên ngôi chưa lần nào bỏ tiền của sửa sang lại, nhưng những hoa lệ ngày nào cứ vẫn rỡ ràng khắp mọi ngóc ngách điện cung.
Cái tối trước lúc thái tử dấy binh làm phản, Hán vũ đế Lưu Triệt trúng phải độc vu cổ, đã chọn đúng nơi này làm nơi nghỉ dưỡng bệnh.
Năm đó thế cục vốn rối mòng, Hán vũ đế về già lại đa nghi tàn đa nghi tệ, từ hoàng hậu phi tử hoàng tử cho đến các bề tôi, ông chẳng tin tưởng một ai. Bởi vậy, không thị vệ nào trong thành Trường An được phép bén mảng đến đây, mọi trách nhiệm đều giao về cho những cái bóng ẩn mình sau lưng hoàng đế – thái giám.
Do trước đã có di mệnh của tiên đế, sau thêm Lưu Phất Lăng cũng ngầm đồng thuận, Vu An bỏ ra mười năm khổ công, đưa một lượng binh trong cung đình không thuộc cấm quân tới đây bồi dưỡng cho đến chốn đến nơi, làm thành đội người âm thầm canh ngặt đủ nẻo tòa núi.
Dòng ôn tuyền nằm lọt ngay giữa cung điện, bốn phía suối đều là cẩm thạch trắng ngần nạm vàng, khắc hoa sen; để trang trí đã hay, lại tránh được hơi nước bốc lên gây trơn trợt.
Bậc bậc đá lát thoai thoải dẫn xuống, trăng trắng hơi phủ mịt mù bao quanh.
Bấy giờ, Lưu Phất Lăng đang ngồi trên một bậc đá, nước suối chỉ cao tới ngang vai chàng. Mình chàng dựa vào gối ngọc phía sau, mắt khép hờ, như chừng thiêm thiếp.
Tính chàng không thích có người quanh quẩn, cả Vu An cũng phải đứng canh ở ngoài rèm châu.
Bỗng, có gã thái giám rón rén bước vào, hành lễ với Vu An. Hắn bước sang nhỏ to với gã vài câu xong, bèn cho gã lui ra lập tức.
Cách một lớp rèm, Vu An trông chẳng rõ bên trong, chỉ đành vặn vẹo tay đứng đợi chứ nào dám mở miệng hó hé chi.
Lưu Phất Lăng lim dim mắt hỏi: “Chuyện gì?”
Vu An vội đáp: “Bẩm hoàng thượng, nô tài vô năng. Tới giờ nô tài đã tra qua hết các cô nữ có mặt ở cung Cam Tuyền bữa trước, nhưng vẫn không kiếm được ra người đã hát bài hát nọ. Nhưng mà, vừa hay lại bắt được một tin khác. Không rõ hoàng thượng có còn nhớ vị nhã trù Trúc công tử từng nấu hầu người một bận hôm xưa không? Lúc đó người này cũng ở cung Cam Tuyền, sau mới bị nô tài hạ lệnh đưa khỏi cung. Theo lời một thái giám từng hầu hạ công chúa là Phú Dụ thì, Nhã trù tuy lấy tên Trúc công tử, nhưng thật lại là con gái.”
Lưu Phất Lăng chậm rãi mở mắt, trầm lặng một thoáng, đoạn hỏi: “Tên của cô ấy là gì?”
“Thưa, lúc Phú Dụ còn ở phủ công chúa thì cũng chẳng phải hàng tâm phúc… mà, những kẻ trước là người trong của phủ công chúa thì nay hầu như đều đã chết cả rồi, thế nên chưa dò ra được tên tuổi ạ. Có điều Trúc công tử là đầu bếp của quán Thất Lý Hương trong thành Trường An, nô tài đã cho người tới Thất Lý Hương tìm hiểu, ước chừng trễ nhất thì cũng tối mai là có tin.”
Lưu Phất Lăng nhớ lại mấy món hôm đó Trúc công tử làm, sực đứng phắt dậy, vội vã lau người, vừa mặc áo vừa phân phó: “Vu An, gọi người chuẩn bị xe, về Trường An, tới thẳng Thất Lý Hương.”
Vu An quỳ sụp xuống dập đầu: “Hoàng thượng, người tới cung Ôn Tuyền không phải là vì đợi gặp Mạnh Giác sao ạ? Tuy chỉ mới gặp một lần, nhưng nô tài có ấn tượng rất sâu sắc với người này. Nghe nói y cùng tiểu thơ nhà họ Hoắc tâm đầu ý hợp, có người còn bảo Hoắc Quang coi y là hạng hiếm có, đối đãi hệt như con mình, chẳng rõ tại sao y lại tìm tới đám thủ hạ của nô tài, cầu nô tài thay mặt y xin hoàng thượng gặp y một bận. Nô tài trôm nghĩ ắt bên trong phải có chi lắt léo. Hoàng thượng, không bằng đợi gặp y xong rồi hãy về Trường An.”
Lưu Phất Lăng chỉnh lại y bào, đoạn vén rèm bước ra: “Bao giờ y tới?”
Vu An nhẩm tính thử thời gian: “Thưa, y bảo tối nay sẽ tìm cách rời Trường An, vậy nhanh thì nửa đêm, chậm thì sớm mai sẽ đến ạ. Nhưng mà, dẫu y có đến lúc nửa đêm đi nữa, thì cũng sẽ chờ đến lúc trời sáng, tìm lúc thích hợp mới nhờ người báo tin với nô tài, chứ chẳng gan đâu mà quấy rầy giấc nghỉ của hoàng thượng ạ.”
Lưu Phất Lăng gật đầu: “Đêm nay chúng ta về ngay Trường An, sớm mai nếu y tới thì cứ lệnh cho y đợi đó, trễ nhất là đến tối trẫm sẽ gặp y.”
Vu An ngẫm ngợi thật nhanh, thấy tuy vẻ nhất quyết của hoàng thượng lạ thật lạ, nhưng sắp xếp thời gian thế nghe ra cũng ổn, bèn “Vâng” một tiếng rồi lùi ra gọi người chuẩn bị xe.
.
Lưu Phất Lăng ngồi trong xe, mình tựa vào gối mềm, nhắm mắt như ngủ, song lòng lại dậy sóng chẳng thôi.
Đến cả thử nghĩ, thử đặt câu hỏi, Trúc công tử đó thật có phải là người mình ngóng chờ hay chăng, chàng cũng quá chừng ngại ngần. Đã nhiều năm như vậy rồi, cứ mãi chôn chân tại đất Trường An, điều duy nhất có thể làm, là đợi. Đây là lần duy nhất chàng chủ động, chủ động đeo đuổi thứ mà có lẽ vận mệnh không muốn cho chàng.
Tình thật, cách sáng suốt nhất vốn là ở yên tại Ly sơn chờ tin, nếu phải mới tính tiếp, nhược bằng không, mọi sự vẫn sẽ như thường.
Hối hả xuống núi thế này, dẫu giấu hành tung khéo tới đâu, giăng hỏa mù khéo tới đâu, thì cũng chẳng chắc được trăm phần là có thể qua mặt đám tai mắt đương lẩn lút dòm ngó. Nhưng, chàng đã đợi trong lặng lẽ quá lâu rồi, lâu tới độ quá sợ sẽ vuột mất, quá sợ… những “lỡ đâu”.
Nếu Trúc công tử đúng thật là em, thì nhất định, nhất định phải gặp được em càng sớm càng tốt. Lỡ đâu có người bắt nạt em thì sao? Lỡ đâu em không vui thì sao? Lỡ đâu em muốn rời khỏi Trường An thì sao? Lỡ đâu, em tình cờ gặp ai khác thì sao? Một ngày có thể xảy ra hằng bao là chuyện, mà chàng thì đã sớm chẳng còn lòng tin ở ông trời.
.
Đương xuống núi yên lành thì gió bỗng chốc nổi, càng đi, càng thấy gió thổi ạt ào. Giữa con đường núi cheo leo, gió như muốn cuốn phăng luôn người vậy.
Vu An thấy không hay, bèn cố thâu hết can đảm sà sang chỗ xe ngựa: “Hoàng thượng, đêm nay gió lớn quá, quả tình không tiện đi lại, nô tài thấy… chẳng bằng quay về thôi! Trễ nhất thì tối mai cũng sẽ có tin, người thực sự không cần phải nhọc công chuyến này làm gì ạ.”
Lưu Phất Lăng chẳng màng mở mắt, chỉ rằng: “Ngươi có thể về.”
Vu An lập tức thốt: “Nô tài không dám.” Xong bèn lùi lại, tiếp tục thả nước kiệu theo xe.
.
Ngựa đã đen, quần áo nón mạng của người cưỡi ngựa cũng đen.
Vân Ca cứ thế ruổi ngựa phóng băng băng giữa bạt ngàn gió lộng.
Gió quất vào mặt đau như dao cứa, nhưng em chỉ cảm thấy độc một nỗi hả hê khôn tả.
Đã biết bao lâu không được phi ngựa thả sức thế này, chỉ tiếc, cưỡi đây chẳng phải là Linh Đang, cũng chẳng phải ngựa báu Hãn huyết, không thì em có thể thách luôn cả gió ấy!
Cha mẹ chắc lại ra ngoài rồi, mấy lúc họ đi tới chỗ nào xa xa, hai ba năm không về cũng cũng là chuyện thường ngày ở huyện. Anh hai thì… chẳng biết đã phiêu bạt tới nơi nao rồi nữa. May mà anh ba lười khủng khiếp, kiểu gì cũng đương nằm nhà. Vừa nhớ tới anh ba, tự dưng em thấy ấm áp lạ, ôi, nhớ ghê là nhớ những khi (rất nhiều khi) ảnh phũ phàng với em…
Chẳng trách người già hay than, ‘Lòng cha lòng mẹ trăm đàng, lòng con lo nhõn một đàng chẳng xong’. Con cái lúc vui thì đâu mấy khi nhớ nhà, chỉ tới lúc nếm phải trái đắng, mới nhận ra nơi mình mong trở về nhất, chính là nhà.
Trước vẫn những tưởng, người yêu em nhất định sẽ coi em như trân bảo đời này chỉ một. Kẻ khác nhìn em ra sao mặc họ, trong mắt chàng, nhất định em lúc nào cũng đáng yêu cũng xinh xắn cũng thông minh, ngàn vàng đổi chẳng đành, và cũng không ai có thể thay thế được.
Nay mới hay, chẳng qua đó chỉ là những mơ mộng đẹp đẽ của thiếu nữ thôi.
Con người sao mà phức tạp quá đỗi, những cái muốn của con người sao mà nhiều quá đỗi. Rất nhiều khi, ngàn vàng đổi chẳng đành, nhưng vạn vàng đổi lại đành, à, biết đâu ngàn vàng lẻ một đổi đã đành rồi cũng nên.
Khóe mắt bỗng cay cay, chẳng lẽ, lại phải rơi lệ vì y nữa ư, không! Giữa trời gió rít, em mở miệng gào lên một tiếng xé cổ. Gió lạnh xát vào má phát rát, nước mắt cuối cùng cũng bị nuốt ngược trở vào.
Lúc mới tới, Trường An là kinh đô của thiên triều Đại Hán, là đô thành phồn hoa, rộng lớn vô bì, cũng là nơi mà em đã mong nhớ tự thưở nhỏ, là nơi ăm ắp ước mơ, ăm ắp hạnh phúc, hay đúng hơn, ăm ắp những thứ em ngỡ là hạnh phúc.
Thế mà nay, em chỉ ước sao mình mãi mãi không phải nghĩ tới tòa thành này nữa. Ước sao, có thể quên hết quên hết quên hết tất thảy những gì đã từng diễn ra nơi đây.
Ngựa à, hãy chạy nhanh thêm, nhanh thêm nữa đi, hãy để tất thảy đều ở lại sau lưng, ở lại rất xa sau lưng đi…
.
Ngựa đen.
Áo cũng là sắc đen tiệp nhất với màu đêm.
Mặt che thật kín, chỉ để lộ ra đôi con mắt đen thẫm.
Dẫu dư hiểu có nửa đêm tới nơi thì Lưu Phất Lăng cũng không phải nói gặp là gặp ngay được, song vẫn cứ phải rút ngắn hết mức thời gian tiêu tốn, giảm thiểu hết mức khả năng bị lộ hành tung trên đường.
May sao đêm nay gió nổi, các nẻo gần như là vắng tanh, hơn nữa, nhờ những trận gió sắc tựa dao này, bọn họ có thể che mặt phóng ngựa mà không lo bị để ý. Kế hoãn binh của y đã tới hạn, còn lần khân nữa, Hoắc Quang chắc chắn sẽ nảy lòng ngờ.
Hiện tại, Lưu Phất Lăng là hy vọng duy nhất của y. Mà, Lưu Phất Lăng bằng lòng gặp riêng y, hẳn vì đã dự liệu được, và cũng đã đồng ý với những lời y sẽ nói.
Tuy y tan cửa nát nhà chẳng hẳn là vì Lưu Phất Lăng, đòi nợ máu cũng không đòi tới Lưu Phất Lăng, song bắt tay với Lưu Phất Lăng thực sự là một trong những điều cuối cùng y muốn. Bao nhiêu ngày qua, y đứng từ xa xa xem xét, đánh giá “hoàng đế”, thuần chỉ là vì mục đích của bản thân, nào ngờ thế sự cuối cùng lại ép y tới nước này.
Cũng như, xưa y hận Lưu Bệnh Dĩ biết là bao nhiêu, đâu ngờ được lại có một ngày cùng hắn lấy cờ luận việc.
Nếu như là trước đây, thì chuyện còn gì đơn giản hơn? Trăm phần chắc chắn y sẽ chọn phương cách có lợi nhất – cưới Hoắc Thành Quân.
Hoắc Thành Quân không giống Hoắc Liên Nhi, cô ta biết rõ mình muốn gì, và cũng đủ khả năng để giành lấy thứ ấy. Đáng ra, với những gì y muốn có được tại Trường An này, một người vợ như vậy mới thực phù hợp.
Nói về giá trị lợi dụng, Vân Ca chẳng đáng để so với Hoắc Thành Quân.
Năm đó tới Trường An, y không tiền, không quan hệ, chỉ là một kẻ áo vải chẳng hơn. Tuy tiểu Hạ nhận là sẽ giúp y, song Hán Vũ đế trước đó đã đưa ra chính sách kềm giữ các phiên trấn, tài lực của các phiên vương bấy giờ đều bị triều đình canh rất gắt, mà thế lực của tiểu Hạ tại Trường An cũng chỉ có hạn. Những kế hoạch của y, muốn thực hiện đều phải cậy vào sản nghiệp và nhân lực trong tay chú Phong. Hiềm nỗi, chú Phong lại luôn noi gương cha nuôi, tránh xa cảnh tranh đấu xáo xào chốn triều đường, thế nên ông tuyệt chẳng đời nào ủng hộ y. Muốn dùng tiền cùng người trong tay ông để len lỏi vào giữa đám quyền thần, căn bản là không thể!
Duy có Vân Ca, con gái của người phụ nữ mà nghĩa phụ yêu sâu nặng, mới đủ khả năng xoay chuyển được toàn bộ tình thế. Nghĩa phụ là thần trong lòng chú Phong, mà y lại là hậu nhân duy nhất của người. Vân Ca, cộng với cái họ “Mạnh” này, đủ sức biến mọi điều không thể trở thành có thể.
Sự thực in như suy đoán của y, chú Phong hôm đó vốn đã nổi trận lôi đình, song ngay lúc trông thấy cây trâm kim ngân Vân Ca đeo trên tóc, thì trong lòng ông, mọi chuyện khác đều đã chẳng còn quan trọng. Quan trọng là, ông đã thấy một thiếu niên mang họ Mạnh nắm lấy tay cô thiếu nữ dưới nhành kim ngân đó. Những bất lực cùng nuối tiếc khôn cùng năm nọ, cuối cùng cũng đã được bù đắp đôi phần.
Nhưng, hiện tại chú Phong đã trao toàn bộ sản nghiệp của Đại Hán cho y. Dẫu cho ba ông bác còn lại có khư khư giữ lấy phần sản nghiệp tại Tây Vực, thì chút ít đó cũng chẳng đáng để so với họ Hoắc quyền nghiêng thiên hạ.
Y đã thử không biết bao bận, cũng đã cố thuyết phục bản thân hằng vô số lần, thậm chí, y đã ôm Hoắc Thành Quân, và cả hôn… Y cứ tự nhắc đi nhắc lại mãi: “Đều là con gái, nhắm mắt ôm vào lòng chẳng phải như nhau cả sao? Huống gì, xét dung mạo, Hoắc Thành Quân đâu hề thua sút Vân Ca.”
Nhưng mà, không giống, dẫu lí trí suy đi nghĩ lại vẫn thấy chẳng chỗ nào không giống, thì đích thực là không giống.
Đầu y nói “Giống, giống”, giục y chậm rãi cúi xuống hôn Hoắc Thành Quân, song tim lại rành mạch bảo y “Không giống, không giống”, để rồi, trong chốc lát cuối cùng, khi đã sem sém chạm vào môi Hoắc Thành Quân, y lại chẳng dằn nổi bản thân mà đẩy cô ta ra.
Trước một Hoắc Thành Quân đầy vẻ thương tổn, ngỡ ngàng, y tức khắc mỉm cười, tạ lỗi rằng mình chẳng nên xúc động mà mạo phạm, hòng yên ủi cô ta. Song tận trong lòng, y biết rõ hơn ai, là vì, người ấy là Vân Ca, người y quyết không thể để vuột khỏi tay mình. Vân Ca bé bỏng của y!
Là Vân Ca đã nắm lấy bàn tay y, vào lúc y bẩn tưởi nhất, lăn lóc nhất.
Là Vân Ca mà những khi ác miệng, y vẫn thường đem cợt cười.
Là cô tiểu thơ đáng yêu chừng bấy năm y ngỡ là ghét đắng ghét cay. Vừa ghét, vừa nhớ như in từng lời từng câu “cô ta” thốt, nhớ như in nét cười, nhớ như in váy lụa xanh, nhớ cái tên đôi chữ.
Ba ông bác thi thoảng lắm mới nhắc tới lạc đà tuyết Thiên Sơn mà “cô ta” cưỡi. Lần nào lần nấy, đều là tại y “khéo sao” lại nói đụng chủ đề, các bác bèn cũng vui miệng kể dăm ba câu về những người, những việc mà bọn họ luôn phải giữ ý tránh né. Thế nên, lần nào lần nấy, y đều khéo sao mà khéo, bâng quơ sao mà bâng quơ, song nói trúng sao mà trúng chủ đề.
Theo dấu chân của lạc đà tuyết Thiên Sơn, y tỉ mẩn lẩy ra từng chút, từng chút tí tẹo tin tức của người mình ghét nọ.
Biết “cô ta” và Linh Đang đã tới hồ Thố Mộc, tới sông Khổng Tước, còn biết Linh Đang theo “cô ta” vượt núi Hưng Đô Khố Thập, tới đất Ca Thấp Di La thuộc Thiên Trúc[1], đi một mạch ba năm chẳng có chút tin tức gì.
“Cô ta” cứ thế thích gì làm đó, cứ thế rộng tay với thời gian, rộng lòng với cuộc đời.
Mà y thì, đương đọc sách, đương luyện kiếm, đương học bốc thuốc, học dùng độc, học gảy đàn, theo ba ông bác tập tành bán buôn, và còn để mắt theo dõi sát sao tình hình tại Hán triều.
Y chẳng để một khắc nào trôi qua trong lãng phí.
Y nỗ lực học hỏi mọi thứ, y một ngày chỉ ngủ hai canh giờ, tới bữa, y vừa ăn cơm vừa đọc thuộc lòng sách, thậm chí cả lúc mê ngủ, y cũng không thôi tập sao cho giống thật giống cha nuôi. Y muốn mượn phong tư toàn mỹ của người giấu che đi những gai góc bên trong. Y muốn khi gặp địch nhân, bọn chúng sẽ chẳng có một mảy may nghi ngại. Y muốn tất thảy những kẻ đã ném cho y cái nhìn khinh thường, nay đứng trước mặt y đều sẽ phải tự lấy làm xấu hổ. Y muốn… chỉ là, y không rõ, bản thân có phải cũng từng loáng thoáng nghĩ rằng… muốn đến khi gặp lại cô nhỏ thích mặc váy xanh đó, mọi thứ ở y đều phải là tốt nhất.
Giữa những mùa lá trút nối nhau qua, y lặng lẽ chờ đợi thời cơ thích hợp để báo thù, lặng lẽ chuẩn bị chu toàn mọi chuyện, và, biết đâu chừng… trong lòng y, trong một góc nào đó vẫn chưa hé lộ ra của lòng y, y cũng đương kiên nhẫn đợi em trở về.
Y đợi buổi trùng phùng hoàn mỹ của cả hai, khi em trở về.
Y làm được rồi! Y đã xuất hiện trước mặt em với phong tư không chỗ nào chê được, mà em, bận này lại giả trang làm một gã ăn mày. Song, ánh mắt em nhìn y xa lạ sao, và bình lặng sao.
Em không nhận ra y ư?!
Chạnh lòng chăng? Hay… nhẹ lòng?
Y thấy em ngốc thật ngốc, thầm giễu em giả vờ tốt bụng, lại ghét sự chẳng chú tâm của em. Chỉ riêng có kinh ngạc thì, không.
Có lẽ, tám năm ấy, ở nơi sâu nhất trong lòng y em chẳng hề là lạ lẫm.
Quá nhiều năm tháng đã trôi qua, quá nhiều vấn vương đã thành hình vào lúc chính y vẫn còn chưa hay chưa tỏ. Lí trí nay chẳng còn thể gột bỏ được những gì ghi dấu trong lòng.
Không đếm hết lần y đã nhìn theo em, dẫu là xa cách, dẫu là trễ tràng, nhưng y đã nhìn theo em, để lòng nhìn theo em. Suốt tám năm dài, y đã quen với việc trong thời, không của mình, có em tồn tại.
Thế nên bây giờ y chỉ còn cách đâm đầu làm một thằng ngốc, không ở tại Trường An vui hưởng ấm êm, lại đi quất ngựa băng băng giữa gió gào; chẳng chọn ngả đường trước mắt thênh thang rộng mở, lại canh đúng cái lối cầu độc mộc thậm cheo leo.
.
Gió lớn đến bực này, thực thì chẳng ai muốn ra khỏi cửa, thế nên suốt nãy giờ Mạnh Giác phóng ngựa, đường cứ gọi là vắng ngắt vắng tanh.
Y đương tưởng có thể cứ vậy mà phi thẳng tới Ly Sơn, ngờ đâu liền trông thấy một cỗ xe cùng kha khá người hộ tống tiến lại từ phía cuối con lộ.
Lúc này mà vẫn lọc cọc trên đường, ắt là phải có chuyện chi gấp gáp lắm. Mạnh Giác thấy nghi hoặc, bèn ghìm cương lại, cẩn thận tránh sang bên. Lục Nguyệt và Bát Nguyệt đương theo sau y, thấy vậy cũng lập tức lùi qua nhường lối.
Cả đoàn người nọ đều mặc áo choàng thùng thình, chẳng biết là do phải cưỡi ngựa giữa trời gió hay còn nguyên nhân khác nữa. Mặt mũi thì cũng bưng kín như hệt nhóm của Mạnh Giác
Đám người xung quanh cỗ xe vừa trông thấy bên lề có ai, tức thì âm thầm đặt tay lên binh khí.
Lục Nguyệt và Bát Nguyệt cũng dốc sức dè chừng.
Tới lúc xem chiều sắp sửa êm xuôi đi qua nhau, đôi bên mới thở hắt một hơi, nhẹ cả người.
Ngờ đâu, chỉ loáng sau, từ cánh rừng bên lề đường lại vụt ra một đám những kẻ bịt mặt, tên nào tên nấy sấn sổ xông tới chỗ cỗ xe.
Đám người theo hộ vệ tức thì vây kín bốn chung quanh xe, Lục Nguyệt cùng Bát Nguyệt cũng phân ngay người trước kẻ sau đứng chắn cho Mạnh Giác. Đao gươm tuốt vỏ loang loáng sáng, trường chém giết đã ngấp nghé mở màn.
Thái giám mang theo bận này, thảy đều võ nghệ phi phàm, là ảnh vệ đã được âm thầm huấn luyện ngay từ thời tiên đế. Lũ người nọ dẫu đông, song chỉ làm Vu An giận chứ chẳng sợ, hắn quát lớn: “Giết sạch cho ta.”
Mạnh Giác thừa biết có hiểu lầm, ngặt nỗi thích khách nọ quả đúng là ập ra từ rừng cây đằng sau lưng bọn y, cứ lẽ thường, chẳng cánh hẩu với bọn y thì là gì? Giữa lúc gấp gáp, làm sao nói ra ngô ra khoai được? Huống chi, mấy chiêu tới chiêu nào cũng hung hiểm, bọn y chỉ còn nước vung kiếm tự vệ, cứ thế ngươi đánh ta đỡ ngươi đánh ta đỡ cuối cùng bị cuốn phắt vào vòng chiến hồi nào chẳng hay.
Nhóm thái giám này đều là cao thủ được huấn luyện bài bản từ nhỏ, võ công đã giỏi, còn thiện lắm ngón giết người, hành hạ người.
Toán thích khách tới hành thích kể cũng không vừa, song chẳng rõ ăn ở làm sao mà lại phải đụng mặt với cái đám bị nhốt riệt trong cung từ bé, chẳng làm gì ngoài việc luyện giết người nọ. Ấy là chưa kể, vì cơ thể thái giám có khiếm khuyết nên hầu như chiêu nào chiêu nấy tung ra cũng đầy âm hận, còn tàn độc hơn cả chiêu của thích khách.
Thích khách dần dà không địch lại, nối nhau gục ngã la liệt dưới lưỡi kiếm của đám thái giám, toàn chết thảm tới độ không thể nào thảm hơn được.
Lưu Phất Lăng nghe tiếng giao tranh đã ngơi, bèn gõ nhẹ lên thành xe, hờ hững thốt: “Khẩu cung.”
Vu An giậm chân xuống đất, bụng hối hận không để đâu cho hết khi nãy giận quá mất khôn, vội hô to: “Bắt sống.” Khổ nỗi, ngó qua thì thấy chỉ còn nhóm Mạnh Giác ba người ở bên nọ, hắn tức thì phi thân sang, xông thẳng tới Mạnh Giác.
Từ lúc lên ba, Vu An đã bắt đầu học võ với đám thái giám già trong cung, chuẩn bị cho sau này còn phục vụ các hoàng tử. Thiên phú của hắn lại vào hàng hiếm có, không thế thì giữa mấy ngàn thái giám Lưu Triệt đời nào lại chọn hắn theo cạnh hoàng đế tương lai của Đại Hán triều? Mấy năm trở lại đây, một thân võ công âm nhu của hắn nếu bảo là khôn người sánh cũng chẳng hợm.
Bên cạnh Mạnh Giác tuy lắm thầy giỏi, phải cái lúc y bắt đầu học nghệ thì tuổi cũng đã mười mấy hơn, dẫu dư sức qua chiêu với hạng tầm tầm, song tới lúc đụng phải tuyệt đỉnh cao thủ cỡ Vu An thì quả là dữ nhiều lành ít.
Lục Nguyệt và Bát Nguyệt lãnh gần chục vết thương, mạng vốn đã treo tòng teng ngay đầu sợi tóc, ngờ đâu hai gã thái giám giao thủ nọ lại giở trò mèo vờn chuột, chẳng lấy mạng mà chỉ dùng kiếm rạch ngang ngang qua thân thể hai người, không sâu không nông, đủ thấy máu thì thôi.
Mạnh Giác mấy lần thốt: “Có hiểu lầm!” Khổ nỗi Vu An chỉ muốn bắt sống y, căn bản là bỏ ngoài tai tất.
Mạnh Giác nổi máu tự cao, chả buồn giải thích nữa, lấy lại trầm tĩnh nhắm đúng mấy chỗ yếu hại của Vu An mà đâm liên tiếp mấy kiếm. Đời đời cao thủ Tây Vực đã tích lại hàng bao kinh nghiệm, chiêu thức trông đơn giản, song lại là kiểu ta chết thì cũng bắt ngươi bồi theo nửa cái mạng mới nghe.
Vu An định là bắt sống, với cũng chẳng ham gì chuyện trúng thương, ra chiêu bèn mới hơi dè chừng.
Tuy là nhất thời chưa thộp được Mạnh Giác, nhưng cũng chỉ là chuyện sớm muộn.
Đám thái giám còn lại đều đứng quây quanh cỗ xe, cười ngó trận giao đấu đã rõ kết quả nọ.
Dưng đâu, trong gió bất thần truyền lại thứ mùi gì cay găn gắt, từ cánh rừng bên lề, khói mù ngùn ngụt bốc ra.
Vu An điếng người, tưởng là lại thêm thích khách tới, không dám vì nhỏ mà mất lớn, lập tức lùi lại bảo vệ Lưu Phất Lăng.
Cung đình tranh đấu đã bao đời nay, thiếu gì thì thiếu chứ tuyệt không thiếu thuốc độc cùng thuốc giải. Đám thái giám đi đâu cũng rinh theo cả nắm mấy thứ nọ, vừa để giết người, vừa để cứu người, cũng là để tới đường cùng thì tự diệt khẩu mình. Vậy nên, độc thì độc, cóc sợ! Hồi sau mới, chết cha, sao nuốt một mạch nào tuyết liên Thiên Sơn, nào hà thủ đô trăm năm nào nhân sâm ngàn năm mà thấy không thấm vào đâu vậy? Cả đám người đua nhau ho sặc ho sụa, mắt cay xè, nóng rực, nước mắt lộp bộp rớt. Nhưng nói trúng độc thì lại chẳng giống, vì tay chân vẫn nhúc nhắc bình thường, lạ hè!
Giữa đám khói mù, ai nấy vung kiếm loạng chà loạng choạng, Mạnh Giác tuy cũng sửng sốt đầy bụng, song lại vừa ho vừa không dằn được bật cười.
Lấy gia vị làm vũ khí vầy, cõi đời này trừ Vân Ca của y chắc cũng khó còn có ai.
Đã chẳng phải độc, tức thị khỏi kiếm thuốc giải. Nếu nói đến “giải độc”, cách duy nhất là lấy nước xúc miệng với rửa mắt cho thật sạch thôi.
Vu An cùng cả đám thái giám còn lại sợ có người đánh úp, bèn vừa ho đến chảy cả nước mắt, vừa căng thẳng đứng chắn cho cỗ xe không dám manh động, mắt giương ra ngó đôi gã thái giám đang xà quần với nhóm của Mạnh Giác.
Vân Ca lấy khăn ướt trùm lên mũi, nhân màn khói rón rén bò tới cạnh Mạnh Giác, vung cả một nắm to gì đó không biết về phía nhóm thái giám, hô lớn: “Ngũ độc thực tâm phấn[2]!”
Mấy gã thái giám nọ nghe thế bất giác đua nhau nhảy tránh. Vân Ca bèn vội kéo Mạnh Giác bỏ chạy, Lục Nguyệt và Bát Nguyệt cũng hộc tốc bám theo sau.
Ngay lúc đó, phe kia cũng phát giác ra thứ vương vãi trên người mình chỉ là hạt hồi, hạt tiêu, quả hồi mí lị một chục thứ linh tinh lang tang khác. Tuy chưa nhận hết được, song “Ngũ độc thực tâm phấn!” đâu có cửa có hạt hồi, đẹp mặt chưa! Đám thái giám tức thì nổi xung lên, rượt theo liền tức khắc.
Lúc chạy ngang qua đống lửa Vân Ca nhóm, Mạnh Giác bèn tiện tay ném vào đó một nắm gì không rõ. Lửa tức thì bốc khói trắng trợt, mùi thơm nức mũi át luôn cả mùi cay gắt hồi đầu.
Mạnh Giác ngoái lại thốt: “Dám khuyên các vị chớ nên đuổi theo nữa, bận này quyết sẽ là độc ‘Đồng tử vô khi, như giả bao hoán’[3] đấy. Độc ta dùng khác xa các loại độc khác, dù các người có thuốc thánh thì cũng phải mất nửa thân võ công là nhẹ.”
Đám người đuổi theo tuy đều cố sức không hít không thở, song vẫn cứ thấy chân mềm nhũn ra, chạy hết đặng. Quả đúng như lời Mạnh Giác nói, dẫu có thuốc giải thì cũng không tránh khỏi bải hoải cả người.
Vân Ca chỉ chỉ tay vào đám ngựa mà nhóm thích khách khi nãy để lại trong rừng, Mạnh Giác cùng Lục Nguyệt Bát Nguyệt lập tức tới dắt ngựa, chỉ riêng có Vân Ca là chựng bước. Mạnh Giác nghiêng mình trèo lên ngựa xong, ngoảnh ra sau thấy Vân Ca vẫn đang đứng như trời trồng tại chỗ, lập tức quay ngựa lại, vươn tay toan kéo em lên ngựa chung với mình.
Vân Ca cứ thế thẫn thờ nhìn y, mãi chẳng chịu đưa tay ra nắm tay y.
Thường ngày, mày em như núi xa, thu ba trong tựa thủy, đong đầy những sướng vui cùng tự tại, đã bao giờ mi rợp trong buồn khổ, mắt óng ánh lệ nhòa như nay?
Mạnh Giác thắc mắc chẳng để đâu cho hết: “Vân Ca?”
Lục Nguyệt và Bát Nguyệt thấy mấy kẻ võ công cao tới biến thái nọ sắp đuổi tới, cuống quýt giục: “Công tử!”
“Vân Ca?” Mạnh Giác gọi thêm một bận, vừa thúc ngựa tới gần em vừa cúi người xuống toan xốc em lên ngựa luôn.
Vân Ca thấy thế lập tức nhảy tránh sang bên. Trước ánh mắt chất vấn đầy thàng thốt của Mạnh Giác, em quyết tuyệt ngoảnh phắt đầu đi, thẳng tay tát một cú thấu trời vào mông ngựa. Ngựa đau quá lao vọt tới trước, Lục Nguyệt và Bát Nguyệt cũng lập tức phóng nước đại theo sau.
Đống lửa Vân Ca nhóm hồi đầu bị gió thổi bắn tóe ra không biết bao nhiêu là đốm lửa cùng đốm lửa. Theo chiều gió, lửa gặp lá khô, cháy bùng lên khắp chốn. Đám ngựa bị lửa dọa cho mất mật, cắm đầu cắm cổ phi như điên, Mạnh Giác có muốn dừng ngựa cỡ nào cũng không xong, chỉ có thể mặc ngựa phóng vun vút mà ngoảnh người lại nhìn trân trối người nọ. Nơi mắt y là chất chồng nghi vấn, là sững sờ, không tin…
Song Vân Ca thì còn chẳng màng cho y cái liếc.
Trời đen như mực, đất rực lửa hồng.
Gió gầm gào vần chuyển giữa đất trời, đám ngựa bé gan chạy lửa còn lẹ hơn cả hơn cả chớp, hú lên những tiếng thậm dài.
Chiếc bóng nọ mỏng mảnh làm sao, dần dà mất tăm khỏi tầm mắt Mạnh Giác.
.
Bấy giờ, ngựa của Vân Ca cũng đã bị lửa dọa tới nhảy chồm chồm. Em bèn ghìm lấy dây cương, lật mình toan leo lên.
Một gã thái giám thấy cảnh cả lũ sắp thoát thân trót lọt cả, bụng vừa núng vừa tức, quên bẵng cả lệnh “bắt sống” của Vu An, vớ thanh kiếm trong tay phi thẳng tới.
Thoáng chốc ấy, Vân Ca đã gần như lên được ngựa, song bỗng đâu lưng lại đau buốt, đau, đau lắm ấy, đau đến thấu cả tim gan. Em quẫn trí cúi đầu nhìn xuống ngực mình, bụng ngỡ ngàng chẳng rõ tại sao lại có mũi kiếm từ ngực mình đâm ra, cũng chẳng rõ những máu tươi đương chảy ướt đầm tay mình nọ là tự đâu tới?
Mắt em dần nhập nhòa, tay trượt khỏi bờm ngựa, người nhũn ra, ngã đánh rầm xuống đất.
Chú ngựa giương cao vó trước, ngửa đầu hú lên với trời một tiếng xé ruột gan, song nào gọi nổi cô chủ của mình? Giữa cơn lửa bừng bừng, bóng hình chú in hằn lên nền trời tối sẫm, trông sao mà thê lương.
Trong rừng, gió vẫn ạt ào thổi.
Lửa nương theo gió, càng bốc càng cao, càng lan càng vượng, cả khoảnh rừng dần dà biến thành bể lửa.
Đất trời rực sắc đỏ, như máu.
Lưu Phất Lăng vén rèn, bước xuống ngựa, lẳng lặng đứng mà trông trận cháy rừng rực trước mặt.
Gió thổi vạt áo chàng kêu lật phật. Dưới ánh lửa đỏ, mặt chàng lạnh dường nước, mắt trầm hệt như sao.
Dịch xong tập 1 ngày 21/01/2014, Sài Gòn.
Mạnh Thu
[1] Sông Khổng Tước là tên của sông Lưu Sa (sông Khai Đô thuộc khu tự trị Tân Cương Trung Quốc ngày nay) sau khi chảy khỏi Tây Hải (hồ Bosten), Đường Tăng thu phục Sa Ngộ Tịnh ở đây đó :DDDD. Núi Hưng Đô Khố Thập tức dãy Hindu Kush nằm giữa Afghanistan và Pakistan ngày nay. Còn Ca Thấp Di La là xứ Kashmir nằm ở phía Bắc của tiểu lục địa Ấn Độ. Quả đúng là Tìm em như thể tìm chim chim bay bể bắc anh ngồi chết dí ở bể đông~
[2] Ngũ độc thực tâm phấn: phấn làm từ năm thứ độc làm mủn tim :p
[3] Haha ‘Đồng tử vô khi, như giả bao hoán’ là câu của miệng của các vị con buôn, nghĩa là trẻ già gì cũng tiếp hân hoan, như mà thấy giả cam đoan đổi hàng! Không biết độc do ai nghĩ ra mà tên thú vị thế :p